Một buổi cuối tuần Bác sĩ Peter Morita gọi phone thăm tôi, anh cho biết anh có hẹn với hai nhạc sĩ và thân hữu sẽ ghé nhà thăm tôi. Hai người nhạc sĩ mà bác sĩ Morita đề cập là nhạc sĩ Thanh Sơn cùng phu nhân của anh từ Việt Nam sang Mỹ do Trung Tâm Thúy Nga mời thu hình trong một show hát. Người thứ hai là nhạc sĩ Anh Bằng đến với cô Thu Hảo, con gái nuôi của anh. Bác sĩ Morita cũng giới thiệu tôi vợ chồng anh Việt Hải cùng đến. Anh Việt Hải là chủ bút của nhóm văn mang tên Văn Đàn Đồng Tâm. Anh có biếu tôi mấy cuốn sách do nhóm anh ấn hành.
Nhạc Sĩ Anh Bằng
Trước đây Bác sĩ Morita có giúp tôi chữa bịnh khi tôi bị bịnh tai biến mạch máu, cũng lâu rồi tôi mới gặp lại anh. Với hai anh Thanh Sơn và Anh Bằng thì kể từ khi tôi ly hương đến nay mới được giáp mặt nhau trò chuyện trong tình nghệ sĩ. Với anh Thanh Sơn quần chúng nhận diện và nhớ mãi qua bài ca bất hủ về mùa hè, đó là bài Nỗi Buồn Hoa Phượng. Với anh Anh Bằng khi anh di cư từ Bắc vào Nam thì bài hát Nỗi Lòng Người Đi đã đưa tên tuổi anh lên cao. Hàn huyên trong chốc lát thì anh chị Thanh Sơn phải giã từ vì đã đến giờ đài phát thanh phỏng vấn anh "live" tại đài. Chúng tôi còn lại mấy anh em tiếp tục chuyện trò, trao đổi những sinh hoạt về đời sống và chuyện văn nghệ nói chung. Anh Việt Hải chia sẻ căn bịnh tai biến như tôi, cả hai chúng tôi đều được bác sĩ Morita giúp đỡ qua phương pháp châm cứu. Riêng Anh Bằng chia sẻ những phương pháp ăn uống và vận động thể dục thích ứng với việc phòng ngừa những tác hại do biến chứng của bịnh tiểu đường gây nên. Anh Anh Bằng và tôi đều mắc bịnh này. Tính theo tuổi đời anh lớn hơn tôi nhiều. Anh là một nhạc sĩ đàn anh. Hồi ở Sài Gòn trước năm 75 chúng tôi gặp nhau tại hai đài phát thanh Sài Gòn và đài phát thanh Quân Đội. Tôi trông anh vẫn có nét tươi trẻ và lạc quan yêu đời, mặc dù anh tâm sự chứng điếc tai làm anh khó khăn liên lạc với mọi người, nhất là qua điện thoại.
Trong sự chia sẻ về âm nhạc, đa số nhạc sĩ sáng tác với chủ đề tình yêu hay tình cảm giữa hai người nam và nữ như nguồn sống của xã hội hay của bản chất của con người. Khía cạnh tình yêu tạo cho người nhạc sĩ chất liệu sáng tác. Tôi được biết dù Anh Bằng vẫn còn sáng tác chủ đề này như bài "Anh Còn Nợ Em" anh nói anh sáng tác nó ở tuổi 80. Người ta nói người nghệ sĩ không có tuổi, bởi vì chính âm nhạc cũng không có tuổi và âm nhạc vốn mang bản chất không giới hạn về tình yêu. Có thể rằng với tâm tư yêu nhạc khiến Anh Bằng còn trẻ trung chăng? Tôi biết giữa anh và tôi có những điểm chung như đề tài về "Mẹ". Cả hai chúng tôi đều thương mẹ của mình, từ thực tế rồi vào âm nhạc. Anh Bằng sáng tác bài Khóc Mẹ Đêm Mưa, tôi có làm ca khúc Khóc Mẹ. Tôi nghĩ là tình mẫu tử thiêng liêng, nó là đặc tính thiên nhiên tạo lập bản thể đạo đức của con người.
Anh Việt Hải có yêu cầu tôi tham gia viết đôi dòng cảm nghĩ về nhạc sĩ Anh Bằng. Tôi xin ghi lại đây những gì tôi đã gặp anh Anh Bằng, anh là một nhạc sĩ có tên tuổi lớn và vui tánh. Trong buổi gặp gỡ ăn uống và hàn huyên của tình bạn văn nghệ này, Việt Hải hỏi anh muốn sống đến bao lâu nữa. Anh Bằng đùa là anh sẽ sống đến con số 118. Việt Hải hỏi tại sao 118, mà không là 120 cho chẵn. Anh lý luận ví những dịp chúc thọ người ta thường nói chúc sống lâu trăm tuổi. Bài Nỗi Lòng Người Đi nói đến con số 18 khi vừa biết yêu. Vị chi là 118. Tôi đùa lại rằng tôi chỉ xin con số lẻ 18 năm trong cái ước muốn của anh Anh Bằng thì tôi sẽ mãn nguyện rồi. Mới đây sách kỷ lục Guinness cho biết bà cụ già cao niên nhất tên là Maria de Jesus tại Bồ Đào Nha được sách ghi nhận chỉ sống đến 115 tuổi. Bởi thế nhạc sĩ Anh Bằng là người vui tánh và yêu đời lắm.
Đôi dòng này xin chúc mừng sinh nhật 83 tuổi của anh nhân dịp năm 2009 được dồi dào sức khỏe, trường thọ, và trường thọ.
Cảm nghĩ về
Nhạc sĩ Anh Bằng
Doãn Quốc Sỹ, Houston
Nước Việt Nam chẳng may đã rẽ vào khúc quanh của lịch sử không vui - đó là ngày 20 tháng 7 năm 1954 Việt Nam bị cắt làm đôi hai miền Bắc Nam thông qua hiệp định đình chiến Giơ-Neo, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới - một khúc quanh lịch sử đau thương nhất trong lịch sử Việt Nam. Bến Hải là con sông định mệnh, đã chứng kiến hàng triệu người bỏ nhà bỏ cửa lánh nạn Cộng sản, dân chúng miền Bắc phải rời bỏ nơi sinh quán để vô miền Nam, họ đã phải bỏ lại mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ cùng ruộng vườn, tài sản ra đi với hai bàn tay trắng, họ là những chứng nhân sống của thời đại đã chứng kiến hay bị sống dưới sự ác nghiệt dối gian của người Cộng Sản. Gia đình chúng tôi cũng như hàng triệu đồng bào đau khổ khác đã phải lìa bỏ tất cả, gạt nước mắt ra đi vào miền Nam tỵ nạn Cộng Sản.
Ôn lại cái kỷ niệm xưa để để mở đầu câu chuyện và xin được phép giới thiệu về nhạc sĩ Anh Bằng. Tôi và Anh Bằng được sinh ra cùng thời, nên đã chia sẻ những biến cố đau thương của dân tộc. Ngày tôi di cư vào Nam có mang theo được bản thảo "Sợ Lửa", việc này chính là điềm báo trước sẽ đưa tôi vào nghiệp viết văn song song với nghiệp cầm phấn, thì Anh Bằng cũng đã mang theo những tình cảm thơ mộng qua việc sáng tác nhạc phẩm “Nỗi Lòng Người Đi” (NLNĐ), đánh dấu cuộc di cư vĩ đại mà người ra đi với bao kỷ niệm đau thương của tâm hồn kẻ ly hương, trong tâm tình đó nhiều người cùng tâm sự đã chia sẻ với Anh Bằng qua bản nhạc NLNĐ mà nhiều người vẫn quen gọi là bài “Tôi Xa Hà Nội” để rồi anh Anh Bằng có được nhịp cầu bước sâu vào lãnh vực âm nhạc, sự thành công ấy là do Anh Bằng được sự đón nhận của giới thưởng ngoạn đã gửi gắm tâm sự của chính mình trong những bài ca tiếng nhạc thật có hồn, mượt mà của nhạc sĩ Anh Bằng.
Doãn Quốc Sỹ dạo đàn nhạc Anh Bằng
Tôi nhớ ở vào thời điểm cuộc di cư vĩ đại hướng về phương Nam, bài hát “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” của nhạc sĩ Lam Phương nói lên nỗi u hoài của cuộc phân ly duyên tình vì thời cuộc, chàng ra đi nàng ở lại, nàng tưởng nhớ về phương Nam của nhân ái và hy vọng; Trong ý tưởng tình yêu như vậy thì bài “Nỗi Lòng Người Đi” mang nội dung nói về nỗi lưu luyến với bóng hình chàng ra đi mà hồn vẫn còn nhớ nhung người yêu của mình còn kẹt lại nơi đất Bắc.
Thể theo lời của hai anh Tạ Xuân Thạc và Việt Hải đã đề nghị là Văn Đàn Đồng Tâm sẽ thực hiện tác phẩm “Kỷ Niệm Về Nhạc Sĩ Anh Bằng”. Theo thông lệ như những tác phẩm viết về “Kỷ Niệm” đã xuất bản trước đây cũng sẽ được mời nhiều cây viết xa gần góp những bài về nhạc sĩ Anh Bằng - Bởi vì với những đóng góp đáng kể trong nền âm nhạc, môn văn hóa cũng sẽ để đời cho hậu thế. Tôi rất vui khi được góp bài viết về Anh Bằng cùng với các vị viết về những kỷ niệm hay những đóng góp của Anh Bằng về nền âm nhạc Việt Nam. Quan niệm rằng những người đã có công xây dựng nền văn hoá Việt Nam dù là trên phương diện âm nhạc, hội họa hay văn chương, tất cả các lãnh vực đó đều là nền tảng văn hoá, và đáng được trân quý và trang trọng như nhau.
Tôi có gặp nhạc sĩ Anh Bằng khi ông đến Houston tham dự buổi thu hình “Asia 52, Huyền Thoại Lê Minh Bằng”. Một buổi tối trước ngày trình diễn liveshow Asia 52, các bằng hữu có cuộc họp mặt ở nhà hàng Đàlạt, khu thương mại Nha Trang tọa lạc tại đường Wilcrest, Khu Southwest Houston, trong buổi gặp gỡ đó đã cho tôi được dịp biết thêm về nhạc sĩ Anh Bằng đến từ nam California, cũng như được gặp nhạc sĩ Lê Dinh đến từ Montréal Canada. Hai người trong nhóm nhạc Lê Minh Bằng. Tiếc rằng anh Minh Kỳ đã bỏ mình trong trại tù Cộng Sản chỉ sau ba tháng kể từ ngày CS cướp chính quyền vào tháng 4-75.
Anh Bằng tên thật là Trần An Bường và sinh năm 1926 tại làng Điền Hộ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội khoảng 100 cây số về hướng nam. Theo sự hiểu biết của tôi thì làng Điền Hộ có một xứ đạo Công giáo cũng mang tên Điền Hộ, nơi đây còn có dãy núi Điền Hộ, về hướng bắc có xã Lai Thành, thuộc huyện Kim Sơn trong tỉnh Ninh Bình, nơi mà thổ sản có món rượu đế ngon có tiếng. Ngoài ra Nga Sơn là một huyện đặc biệt của tỉnh Thanh Hoá, mà địa danh Nga Sơn đã vào lịch sử vì gắn liền với sự tích quả dưa hấu với Mai An Tiêm, người con nuôi của vua Hùng Vương thứ 18.
Trở lại với nhạc sĩ Anh Bằng, ông cho biết là đã theo học bậc trung học ở Hà Nội trước khi di cư vào Nam năm 1954. Ông sinh sống ở Sài Gòn rồi gia nhập vào quân đội trong Biệt Đoàn Tâm Lý Chiến, phát triển nghề nghiệp âm nhạc rất thành công cho đến năm 1975, khi miền Nam lọt vào tay Cộng sản tháng 4 đen năm 75, lại một lần nữa ông lại trốn chạy Công sản, di tản sang định cư tại Hoa Kỳ.
Anh Bằng hiện nay là một trong những nhạc sĩ cao niên của nền âm nhạc Việt Nam tại hải ngoại vẫn còn sáng tác, Anh Bằng sáng tác nhạc miệt mài và không ngưng nghỉ. Tuy làm việc như vậy nhưng sức con người nhất là khi tuổi đã cao thì sự sa sút về sức khoẻ là điều không thể tránh, nhất là Anh Bằng lại bị thính giác hư, tai bị điếc, ông chỉ nghe được chừng 10% đến 20% là tối đa.
Qua trường hợp của Anh Bằng, tôi lại mường tượng đến nhạc sĩ tài danh Beethoveen, nổi cộm trên nền âm nhạc quốc tế. Khi ông đạt được sự nghiệp âm nhạc phát triển lên tột độ thì Beethoven bị chứng bệnh tai điếc. Đầu tiên là biến chứng nặng tai, đến năm 19 tuổi thì điếc hẳn, lúc đó ông chỉ có thể giao tiếp với người chung quanh qua việc bút đàm vì ông không còn khả năng đàm thoại với người chung quanh, kể cả với người thân yêu nhất, vì không thể nghe thấy bất cứ tiếng động nào nữa. Những nốt nhạc mà ông cần thiết cũng phải nhọc nhằn tìm kiếm. Có những lúc quá nản chí, Beethoven tuyệt vọng định tìm đến thần chết, ông đã viết trong bức thư tuyệt mệnh là ông đau khổ muốn trốn tránh mọi người và vì không còn kiên nhẫn thêm được nữa. Nhưng may thay, cuối cùng chính nỗi đam mê âm nhạc, ông đã tự đứng dậy, vì con người của ông vốn đam mê âm nhạc, máu mê âm nhạc hình như đã lưu thông mạnh mẽ trong dòng huyết quản, ông không chết mà trái lại đã sống mãi trong sự nghiệp âm nhạc của ông cho đến muôn đời.
Riêng Anh Bằng cũng chia sẻ chứng bệnh tai điếc như Beethoven nhưng may mắn lại ở tuổi lớn hơn, trầm tĩnh hơn, với bản năng chấp nhận thực tế phũ phàng, Anh Bằng đã tạo cho mình sự tự tin và đã tìm cách gỡ rối cho mình, ông kể lại rằng với khả năng hiểu biết về nhạc lý, khi dòng nhạc hay ý nhạc chợt đến thì ông đã ngân nga trong đầu để nhận biết từng nốt nhạc, rồi ông ghi ra trên mặt giấy, chải chuốt nốt nhạc cũng ở trong đầu … khi bản nhạc đang viết đó đã vừa ý thì lúc đó Anh Bằng mới coi như hoàn tất cho một sáng tác. Anh Bằng là biểu tượng cho cho sự thành công vượt bậc.
Âm nhạc của thế giới âm nhạc không thiếu những nhạc sĩ tài ba vượt qua những khuyết tật dể tạo cho tên tuổi của mình, xin đan cử một số nhân tài như Văn Vĩ, Ray Charles hay Stevie Wonder. Người mình vẫn thường cho là “có tật có tài”. Thực vậy, Anh Bằng tự nhủ lòng mình bằng một quan niệm lạc quan trong cuộc sống, chấp nhận sự thử thách vượt qua mọi trở ngại, vì vậy đến nay ông đã ngoại bát tuần, nhạc sĩ Anh Bằng vẫn còn sáng tác đều đặn. Điều này cho thấy nỗi đam mê âm nhạc của Anh Bằng chưa chấm dứt, ông chưa chịu gác kiếm. Thiên tài nơi con người ông vẫn còn tiếp diễn có lẽ cho đến trọn cả cuộc đời.
Tôi viết bài này như một kỷ niệm gửi đến Anh Bằng để cùng chia sẻ những niềm vui nhân dịp mừng sinh nhật của ông. Tôi chân thành mến chúc Anh Bằng tiếp tục sống với những niềm vui trong âm nhạc. Nếu âm nhạc đến với Anh Bằng bằng sự nổi danh của thời trai trẻ, thì tôi cũng nghĩ rằng chính âm nhạc cũng sẽ là tiếng ru êm ái trong tuổi chiều tà bóng xế bằng niềm vui với sức sống mãnh liệt, và bằng sự lạc quan tự tin sẽ vượt qua mọi trở ngại dù lớn hay nhỏ, tuy có thể vẫn còn chút vấn bụi nào đó khuấy động chung quanh ông.
Hà Nội và Anh Bằng
Trong Tôi
Việt Hải Los Angeles
Cách đây khá lâu rồi tôi có viết bài "Hà Nội Còn Nhớ Hay Quên", mà tôi đã dùng bài "Nỗi Lòng Người Đi" của Nhạc sĩ Anh Bằng làm dẫn nhập cho bài. Chuyện cũ ngày xưa là vì người thầy tôi hồi tiểu học đã đưa tôi tới gần với dòng nhạc của người nhạc sĩ này trong ký ức ngày cũ, tôi còn nhớ nhiều lắm, và nhớ rất rõ. Tôi viết như sau:
“"Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa
Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy..."
Tôi nghe bài ca "Nỗi Lòng Người Đi" của nhạc sĩ Anh Bằng phát ra từ chiếc radio trên xe sáng nay. Bài hát trùng hợp với sự kiện tôi vừa nhận được một quyển sách do một nhà văn cao niên biếu tôi do nhà thơ Vũ Hoài Mỹ trao lại. Sách mang tựa đề "Về những kỷ niệm quê hương" của nhà văn Nguyễn Thạch Kiên. Nguyễn Thạch Kiên là một trong số các nhà cầm bút lão thành còn sót lại. Tôi thích sách này vì tác giả kể nhiều về các nhà văn, nhà thơ và Hà Nội trước 54. Trang 6 của sách có hình của tác giả khi còn trẻ, ông trông thật bảnh trai, thật khôi ngô. Xem hình tôi nhớ lại vị thầy cũ đáng kính mến, đầy thân thiện của tôi dạy lớp nhất là thầy Mai. Thầy Mai di cư từ miền Bắc vào Nam năm 54 và đi chỉ có một mình. Thầy vào Nam trong nỗi cô đơn. Nhà thầy ở gần khu vực cư xá Đô Thành Sài Gòn trên dường Phan Thanh Giản. Thầy có tài vẽ rất đẹp, thầy làm thơ và ca thật hay. Ngày đó tôi đi học phải cuốc bộ từ góc Lê Thánh Tôn và Cường Để băng qua Sở Thú (Thảo Cầm Viên), rồi qua cây cầu Bông bắc ngang sông Thị Nghè đến trường Thạnh Mỹ Tây II. Dĩ nhiên đoạn đường đi học rất đẹp vì xuyên qua những con đường trong Sở Thú, nơi có muôn hoa, bách thảo, và nhiều loài vật hiếm quý, rồi đi men trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm có những hàng cây sao cao vun vút, quẹo phải sang góc cuối đường Lê Thánh Tôn với hàng me chạy dài bóng mát dẫn về nhà. Trên đoạn đường đó thầy Mai đi cùng lối về nên thường cho tôi quá giang trên chiếc gắn máy Vespa của thầy. Những ngày lễ liên hoan tại trường như dịp Tết Nguyên Đán hay ngày Quốc Hận chia đôi đất nước, 20 tháng 7, thầy mang đàn vào, thầy hát bài ca "Nỗi Lòng Người Đi". Để rồi từ đó tôi biết bài này. Thầy thường kể tôi nghe về đất Bắc từ Hà Nội thơ mộng của thầy, vịnh Hạ Long, cao nguyên Sapa, đến chùa Hương,... Trong trường có một cô giáo cùng gốc Bắc tỏ ra mến thầy và tôi là con thoi giao thư qua lại. Ngược lại, tôi được thầy tín cẩn cho làm đệ tử và cho về chung trên chiếc Vespa của kỷ niệm khó quên ngày nào.
"Bạn lòng ơi! Ngày ấy tôi mang cây đàn quen
sống ca vui bên nàng
Nay khóc tơ duyên lìa tan
Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời
ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ
Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi
trong bùi ngùi ước mơ nên đẹp đôi"
Nói tới Hà Nội tôi liên tưởng đến thơ thầy Mai của ngày cũ hôm nào:
"Hà Nội ơi, thơm ngọt ngào hoa sữa
Con đường xưa bao dấu vết chân quen
Hồ Gươm đây mây bay trời lộng gió
Mưa phùn rơi e ấp dáng nguồn thơ..."
hay
"Hà Nội ơi, dịu dàng như hương cốm
Nụ hoa sữa che búp bầu trời xanh
Thấy trong tôi như trời đang dừng lại
Gió nhẹ ru cho vàng mùa Thu tới..."
Còn nhớ trong tôi bài thơ ngày ấy những dòng thơ dịu dàng của thầy Mai về Hà Nội như là bước khởi đầu tình tự giữa tâm hồn tôi và Hà Nội, để cho cái hồn thơ đó đã ăn sâu vào dòng huyết quản của tôi. Rồi cho ý tưởng của tôi về Hà Nội đong đầy bao ký ức thời tiểu học khi mà có thầy Mai, có cô Loan, có người Hà Nội xa xưa mà tôi được nghe kể về Hà Nội có mưa phùn nhẹ bay, có mùi thơm hoa sữa quyện vào không gian có hương cốm ngọt ngào của đầu ngày..."
Rồi những đoạn cuối tôi nhớ về thầy Mai và nhà văn Nguyễn Thạch Kiên viết về Hà Nội của ông như sau:
"Nguyễn Thạch Kiên viết về Hồ Tây của Hà Nội:
"Hồ Tây lộng gió, bát ngát ở trước mặt. Có những cánh buồm trắng phía xa xa dập dờn trên làn nước mát. Vài chiếc pe-rít-xoa lao vun vút rồi vòng lại. Khu Tiểu Đồ Sơn, trong dãy nhà hóng gió, Tây đầm lớn nhỏ ngồi bên ly rượu ngồi giải khát, vẻ kiêu kỳ, thoải mái. Nhưng khu rặng ổi Quảng Bá vẫn là nơi quyến rủ chúng tôi hơn."
Hà Nội trong hoài niệm ngự trị tâm hồn thầy Mai, hay Hà Nội trong trí nhớ dai dẳng của nhà văn Nguyễn Thạch Kiên có nhiều điểm tương đồng vì họ đã ra đi, họ bỏ lại Hà Nội trong giấc ngủ cô đơn, Hà Nội trong nhung nhớ tột cùng và Hà Nội trong thao thức của thuở thiếu thời. Tôi gặp nhà văn lão thành này ông ôn lại cả một bầu trời lưu luyến, miên viễn kể lại cái ký ức của ngày xưa, những năm 30 hay 40 mà nay đã lùi vào dĩ vãng. Cái dĩ vãng có mưa phùn lấm tấm giăng phủ Hồ Gươm, những hàng liễu xanh đong đưa trong gió, bóng cây lung linh mặt hồ như bóng người thiếu nữ hôm nào của nhà văn hay của thầy tôi e ấp trong kỷ niệm dấu yêu xưa."
BS Morita, Anh Bằng, Thúy Anh, Lệ Hoa, Việt Hải
Những ngày còn bé của bậc tiểu học khi mài đũng quần ở ghế học đường thú thực tôi không nghĩ tôi có dịp gặp được Nhạc sĩ Anh Bằng, thì nói chi như ngày hôm nay tôi được dịp gặp ông bằng da bằng thịt ở ngoài đời hay gặp ông bằng chữ nghĩa gửi qua email khá thường xuyên.
Qua nhạc sĩ Lê Dinh khi ông làm chủ nhiệm tờ Nghệ Thuật bên Montreal mà tôi gửi bài đăng, tôi được giới thiệu đến Nhạc sĩ Anh Bằng. Tôi rất vui khi được biết nhạc sĩ Anh Bằng rất yêu thích văn chương, ngoài phạm vi âm nhạc của ông. Khi tôi gia nhập Văn Đàn Đồng Tâm mà GS Doãn Quốc Sỹ và BS Tạ Xuân Thạc thành lập. Tôi được dịp gửi biếu một số sách đến ông. Một dịp mùa xuân năm Đinh Hợi 2007, nhà văn Quyên Di có mời một số anh chị em văn nghệ sĩ họp Tết tại Trung Tâm Văn hóa Việt tại thành phố Santa Ana, Nam California, tôi được dịp tiếp xúc và chuyện trò cùng Nhạc sĩ Anh Bằng . Hôm đó là ngày vui Tết chúng tôi nhâm nhi bánh mứt, uống trà mạn sen của anh Quyên Di mang từ nhà sang, anh Quyên Di vốn là nhà văn của tuổi thơ mà tôi rất mến mộ của thuở trung và tiểu học qua loạt sách Tuổi Hoa. Hiện nay anh là GS giảng dạy văn chương Việt Nam tại trường UCLA (University of California at Los Angeles). Anh có kiến thức uyên bác về văn chương, Quyên Di dẫn khách đi xem tranh nghệ thuật chưng bày tại đây, tôi chú ý đền những bức tranh Đông Hồ khi anh thuyết giảng trong khi Nhạc sĩ Anh Bằng tiến gần lại những bức tranh họa đồng quê miền Bắc, ông bảo với tôi rằng ông nhớ Hà Nội lắm. Tôi hiểu ý ông, vì chính tôi cũng nhớ Sài Gòn kinh khủng. Nhạc sĩ Anh Bằng sinh trưởng và lớn lên tại miền Bắc, ông sống nhiều năm tại Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Hà Nội vấn vương bước chân ông khi ông rới xa, để rồi hồn thơ, hồn nhạc như sức ép đổ dồn vào bài tình ca bất hủ mà tôi ưa thích.
Có những tác phẩm âm nhạc, nghệ thuật hay văn học thường có những bí ẩn tạo ra những nghi vấn, những hiếu kỳ để người ta đi tìm tòi về tác phẩm đó ví dụ như những dẫn dụ sau đây:
Nhà đại danh họa Leornardo Da Vinci khi vẽ bức danh họa La Joconde được chưng bày trong bảo tàng viện Louvre bên Pháp, đã ẩn chứa bóng hình một nhân vật huyền bí nào đó qua vai nàng kiều nữ Mona Lisa với nụ cười duyên dáng, nhưng đầy bí hiễm. Rồi đến Đại văn hào Boris Pasternak khi thực hiện đại tác phẩm “Doctor Zhivago", đưa đến giải Nobel văn chương hòa bình vào năm 1958 và được công ty MGM quay thành phim năm 1965, đã cố đưa hình ảnh người yêu là nàng kiều nữ tóc vàng Olga Vsevolodovna qua vai người tình Lara trong truyện. Với Nhạc sĩ Anh Bằng, trong sự tìm tòi của tôi về bài "Nỗi Lòng Người Đi" thì ai là bóng hình chiếm lấy tâm tư của người sáng tác như thế. Tôi chỉ biết đó là một tình yêu thật đẹp khi hai con tim tìm được nhịp đập đồng bộ yêu thương, một mối tình đầu thơ mộng kiểu puppy love. Rồi cuối cùng ông đã viết trong email trả lời cho tôi để kể về câu chuyện xưa như sau:
"Tôi có quen một người em gái nhỏ, nữ sinh Hà Nội. Nàng tên là Hà. Hà và tôi yêu nhau trong một tình yêu thánh thiện. Tình yêu của chúng tôi giới hạn bởi những lần nắm tay nhau đi dạo Hồ Gươm, hoặc những lần ăn chung gói lạc rang dưới gốc cây cạnh bờ hồ, và chỉ để nhìn nhau đắm đuối mến thương. Những buổi chiều se lạnh mùa đông, tôi khoác áo ấm cho Hà, rồi cái kỷ niệm mùa hè năm nào chúng tôi ngắm nhìn đôi vịt trời (le le) nô đùa bên sóng nước dưới cành liễu rủ, nàng đút lạc rang cho tôi, tôi bảo tôi yêu nàng, nàng cười bẽn lẽn. Tôi thấy nàng đẹp vô cùng.
Tôi còn nhớ có những hôm tôi ôm đàn guitare đệm cho nàng hát. Giọng hát nữ sinh của Hà khá lôi cuốn. Hà hát rất tự nhiên trong nét duyên dáng, thỉnh thoảng xen chút nũng nịu. Tôi bị thu hút bởi tiếng hát dễ thương và ánh mắt thiên thần ấy, để rồi sau này nhớ đến Hà, bỗng dưng hồn nhạc tạo cho tôi nguồn cảm tác thành một ca khúc nói về mối tình cảm đẹp đẽ nhẹ nhàng đó, có hình ảnh ngày xưa ấy của Hà trong dòng nhạc của tôi.
Rồi khi đất nước phân đôi, mối tình thơ mộng của chúng tôi chia chung số phận nghiệt ngã của quê hương. Ngày chia ly, Hà thổn thức khóc trên vai tôi. Nàng cho biết gia đình nàng sẽ ở lại, phần tôi, nắm chặt lấy tay nàng tôi nói tôi phải theo gia đình vào Nam. Nàng khóc ngất thành tiếng, tôi vỗ về nàng, chúc nàng ở lại với nhiều may mắn, tôi vuốt tóc nàng nhìn những dòng lệ long lanh lăn trên má nàng, lòng tôi se thắt, xót xa cho mối tình nhỏ của chúng tôi sẽ phải kết thúc để tôi đi tìm một mối tình lớn, đó là ánh sáng miền Nam tự do. Trên bước đường xuôi Nam, tôi biết tiếng khóc của người yêu vẫn theo đuổi tôi. Những dòng nước biển xoáy trong sức ly tâm của chân vịt tàu tạo thành những con sóng chia ly, mắt tôi bỗng nhạt nhòa chia tay với miền Bắc yêu thương, con tàu mang tôi đi xa dần, rồi xa dần miền Bắc của tuổi thơ mộng mơ. Tàu vượt Bến Hải đưa tôi xuôi Nam trong cảm giác nhớ nhung đến Hà, và từ đó tôi thai ghén ra bài tình ca "Nỗi Lòng Ngưới Đi", mà sau này trong dân gian có người gọi là bài "Tôi Xa Hà Nội". Nghĩ cho cùng cũng không ngoa lắm đâu, khi đứng trên tàu nhìn miền Bắc xa dần trong tầm mắt cũng có nghĩa là tôi đã xa Hà Nội, hay xa một mối tình có Hà Nội với kỷ niệm đẹp và có cô nữ sinh Hà bên bờ Hồ Gươm ngày nào".
Thưa, đó là những tâm sự chôn dấu bao năm khi người nhạc sĩ không muốn tự mình viết ra công chúng. Giờ đây tôi được phép trích đăng một phần của email của ông đề cập về nỗi lòng năm xưa của ông. Biến cố đất nước phân ly năm 1954 có rất nhiều mối tình chia ly trong lưu luyến, để rồi những luyến lưu đó được âm nhạc hay thi ca ghi nhận. Trong giới văn học có lẽ chúng ta không quên bài thơ bất hủ của nhà thơ Hoàng Anh Tuấn ghi nhận qua tác phẩm "Yêu Em, Hà-nội":
"Hà-nội yêu, anh vẫn yêu muốn khóc
Mấy chục năm, xa đến mấy nghìn năm
Giã từ em -mười bảy tuổi- một lần
Thu rất mỏng, mưa hững hờ đẫm lá"
Tôi email đến Nhạc sĩ Anh Bằng bài thơ "Yêu Em, Hà Nội" của Hoàng Anh Tuấn, ông cho biết ông tìm được sự đồng cảm với tác giả. Thực vậy, đối với những tác giả ra đi bỏ lại Hà Nội vào những năm của thập niên 50 để vào Nam thì Hà Nội trong tâm tưởng vẫn là Hà Nội với những dấu yêu ngày cũ, chưa bị chính trị hóa từ cái ác tính của chế độ cầm giữ quyền bính và tạo ra không biết bao những giáo điều xấu xa bao trùm lên kiếp người từ khóm cây đến ngọn cỏ, để Hà Nội ở lại sau 54 vất vơ vất vưỡng trong ngục tù Cộng Sản. Do đó Hà Nội của Hoàng Anh Tuấn hay Hà Nội của Anh Bằng là mối tình nhuốm nét văn chương lãng mạn, Hà Nội có em ở lại trong con tim nặng trĩu thương yêu qua những dòng thơ đầy nhung nhớ:
"Hà-nội yêu, mối tình đầu khờ khạo
Em nhận thư, anh ngây ngất tủi mừng
Khi về nhà, cười nụ với cầu thang
Một tuần lễ, vui như ngày thi đỗ"
Hay "Nỗi Lòng Người Đi" của Anh Bằng nói lên nỗi băn khoăn khi chia ly với Hà Nội:
"Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương
thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa"
Em Hà Nội của Hoàng Anh Tuấn hay em Hà Nội của Anh Bằng là tình yêu dâng ngôi vào mùa hò hẹn, mùa gặp gỡ yêu thương, bao sầu vấn vương dáng liễu xưa:
"Hà-nội yêu, liễu hẹn hò nắng mới
Hẹn hò em anh bối rối chim khuyên
Nào có bao giờ anh được thơm em
Nên dáng liễu còn u sầu vạn thuở"
"Nỗi Lòng Người Đi" của Anh Bằng có em Hà Nội với em mười sáu xuân tròn yêu thương say đắm. Hà Nội của Anh Bằng có cô nữ sinh Hà của nét nhìn thơ ngây, của dáng e ấp như bờ liễu xanh của Hồ Gươm hẹn hò:
"Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu
xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian,
tình ái em đong thật đầy
Bạn lòng ơi! Ngày ấy tôi mang cây đàn
quen sống ca vui bên nàng
Nay khóc tơ duyên lìa tan"
Hoàng Anh Tuấn cho thơ kết của tình yêu em Hà Nội còn vương vấn trong những vần thơ cũ:
"Hà-nội yêu, vẫn y nguyên tưởng nhớ
Nên nghìn năm vẫn ngỡ mới hôm qua
Bóng hoàng lan, sân gạch mát sau nhà
Còn vương vấn trong những bài thơ cũ"
Em Hà Nội của Anh Bằng là những chuỗi ngày dài xa nhau, của những buổi gặp gỡ bên Hồ Gươm là mộng chiều tưởng nhớ, là những trăn trở của con tim như ý tưởng của câu cuối dưới đây:
"Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời
ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ"
Tác giả kể chuyện Anh Bằng
Tóm lại, tôi viết bài này trong mục đích cô đọng những ý tưởng trao đổi với Nhạc sĩ Anh Bằng về Hà Nội trong kỷ niệm xa xưa của ông, rồi tôi muốn nhắc lại bài tình ca bất hủ mà ông giáo dạy tiểu học đã giới thiệu vào tâm trí của tôi, và bài tình ca đó lại của người nhạc sĩ mà sau mấy chục năm tôi mới hân hạnh được gặp mặt và được quen biết ông. Những lời cuối cùng tôi xin cám ơn Nhạc sĩ Anh Bằng vì ông đã chia sẻ tâm sự lòng, những điều mà từ đó tôi có thể đem vào văn chương của mình.
"Anh Bằng và Hà Nội Trong Tôi" có người nhạc sĩ mang tôi gần với Hà Nội thuở đầu đời, và Nhạc sĩ Anh Bằng là nhân vật tình cảm của văn chuơng trong ý tưởng của tôi, người của âm nhạc lãng mạn, trong hồn thơ của tháng năm cũ và trong cái tâm tình đó tôi xin gửi đến ông những câu thơ của Hà Nội chia ly ngày xưa, hay cách nói khác là Nỗi Lòng Người Đi:
"Hà như Hà Nội hương xưa
Nay còn kỷ niệm dẫu chưa phai mờ
Nỗi Lòng gói kín hồn thơ
Người Đi dòng nhạc tôn thờ tình xa."
Tản Mạn chút Anh Bằng
và phổ nhạc
Lan Hương, Cali 2009
Phải nói là nhạc sĩ Anh Bằng là người phổ nhiều nhạc phẩm từ thơ. Theo tôi được biết khi ông khởi sự với âm nhạc, nhạc và lời do ông sáng tác, những năm của thập niên 70 tại miền Nam hình như phong trào nhạc phổ thơ rất thịnh hành mạnh mẽ, đơn cử những ví dụ điển hình như sự kết hợp nhịp nhàng giữa thơ Nguyên Sa và nhạc Ngô Thụy Miên, hay giữa thơ Nguyễn Tất Nhiên và nhạc Phạm Duy. Thuở ấy Anh Bằng cũng phổ thơ của nhiều thi sĩ rồi, có lẽ ông muốn dùng tinh hoa của nhiều người trong dòng nhạc củua mình, không cô đọng vào vài nhà thơ.
Nhạc sĩ Anh Bằng
Những bản phô như Anh Cứ Hẹn (Hồ Dzếnh), Ai Bảo Em Là Giai Nhân (Lưu Trọng Lư), Bướm Trắng (Nguyễn Bính), Chuyện Tình Hoa Trắng (Kiên Giang), Trúc Đào (Nguyễn Tất Nhiên), Chuyện Hoa Sim (Hữu Loan), Chuyện Hoa Tigôn (TTKH), Hoa Học Trò (Nhất Tuấn)...
Sự giao duyên mật thiết giữa thi ca và âm nhạc đã khiến nhiều nhạc phẩm phổ thơ trở nên bất hủ và vang đi xa hơn qua các sóng phát thanh ở bên nhà trước 75 hhay được phổ biến mạnh hơn qua sóng phát hình và DVD như sau này. Ở Anh Bằng người ta thấy một hiện tượng rõ nét hơn, càng về chiều nhạc ông bung ra nhiều hơn, hình như sức sáng tác tỷ lệ nghịch với tuổi tác trong trường ông khi mà ông vượt bát tuần, nhựa sống vẫn đong đầy trong nhiều nhạc phẩm ông cho ra đời. Nếu lứa tuổi 30, 40 một phần nhạc của ông va chạm với cuộc chiến bao quanh môi trường sống, hay xã hội bi thương như Nó, Đêm Nguyện Cầu, Nửa Đêm Biên Giới,... Theo tôi đoán nhạc của Anh Bằng tự chính nó mang bản chất và sống với tình ca lãng mạn từ Nỗi Lòng Người Đi, Nếu Vắng Anh, Sài Gòn Thứ Bảy,... đến Khúc Thụy Du, Anh Còn Yêu Em hay Anh còn Nợ Em, vv...
Tham khảo DVD Asia-52, qua bài tình ca "Anh Cứ hẹn", phổ từ thơ của Hồ Dzếnh vào năm 1986, phổ bài "Ngập Ngừng", thơ là:
"Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ: gớm, làm sao nhớ thế!
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Em tôi ơi, Tình có nghĩa gì đâu,
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu ?
Thuở ân ái mong manh như nắng lụa,
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa,
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi,
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi!..."
Nhạc Anh Bằng là:
"Anh cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé
Để một mình em dạo phố lang thang
Quán vắng quanh đây nụ hôn quá nồng nàn
Em bước vội để che hồn trống vắng
Anh cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé
Để chuyện tình em đợi đến si mê
Những lúc xa nhau là tiếng sóng gần kề
Không dỗi hờn xót xa làm ướt mi
Tình yêu chỉ đẹp phút hẹn thề
Tình yêu sẽ buồn khi bước vào vòng đam mê
Tình như trái mộng chín rung rinh trên đầu cành
Tình như nắng lụa hóa mộng mơ..."
Tôi cho là Anh Bằng chỉ mượn ý thơ Hồ Dzếnh mà thôi, ca từ phần nhiều là của Anh Bằng, như thế thì ông mới ta những lời lẽ nũng nịu, chút nhõng nhẽo, chút làm dáng của người con gái qua lời ca tiếng nhạc.
Tương tự, trong bài hát được rất nhiều người ưa chuộng là "Nếu Vắng Anh", ông mượn ý thơ Nguyên Sa trong bài thơ "Cần Thiết" để hoàn thành bài tình ca độc đáo của mình, hãy xem lời thơ của bài "Cần Thiết":
"Không có anh lấy ai đưa em đi học về ?
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học?
Ai lau mắt cho em ngồi khóc?
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa ?
Những lúc em cười trong đêm khuya,
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng?
Đôi mắt sáng là hành tinh lóng lánh
Lúc sương mù ai thở để sương tan
Ai cầm tay cho đỏ má hồng em
Ai thở nhẹ cho mây vào trong tó ...
Không có anh nhỡ một mai em khóc
Ánh thu buồn trong mắt sẽ hao đi
Tóc sẽ dài thêm mớ tóc buồn thơ
Không có anh thì ai ve vuốt?..."
Nào, hãy quan sát lời nhạc của Anh Bằng:
"Nếu vắng anh ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió.
Nếu vắng anh ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố.
Nếu vắng anh ai đón em khi tan trường về,
kề bóng em ven sông chiều chiều,
gọi tên người yêu.
Nếu vắng anh ai ngồi gần em thêm hương nồng đêm giá.
Nếu vắng anh ai dệt vần thơ cho em hồng đôi má.
Nếu vắng anh ai ngắm môi em tươi nụ cười,
Làn tóc xanh buông lơi tuyệt vời, chan chứa mộng đời
Nhưng thôi em biết rằng khi núi sông chưa thái bình
trên khắp nơi. Anh đi vì nguồn sống,
vì ngày mai, vì tự do liều thân tranh đấu.
Có những đêm âm thầm nghe tin vang xa ngoài tiền tuyến.
Nhớ đến anh oai hùng xông pha gian nguy vòng chinh chiến.
Phút luyến thương em chắp hai tay lên nguyện cầu
Mộng ước quê hương thôi hận sầu ta sớm gần nhau."
Dù đã cao tuổi,
NS Anh Bằng trông rất tráng kiện, đẹp lão
Theo thiển nghĩ của tôi, mỗi bài thơ do thi sĩ sáng tác được tạo bởi một mức độ nhạc tính khác nhau. Nên khi nhạc sĩ phổ nhạc bài thơ thì giòng nhạc chỉ đến tự nhiên thôi nên nhạc sĩ hãy sử dụng nguồn nhạc hứng khởi và kinh nghiệm hay kỹ thuật biến thể thơ sao cho thích ứng với nhạc, để mang kết quả nhạc phổ thơ đến với khán thính giả. Khi phổ nhạc một bài thơ, cấu trúc của bài thơ, về cách gieo vần và luật bằng trắc của bài thơ, có thể lời thơ nguyên thủy không thích hợp với khung nhạc hay âm vận, âm điệu bị giới hạn. Nghĩ cho cùng về chuyện phổ nhạc từ thơ khó lắm, nhạc sĩ vừa phải đắn đo chọn ra từng chữ, và chọn âm điệu thế nào để lột tả cái hồn của bài nhạc tối thiểu vẫn giữ ý chính thơ. Khi tự viết cả nhạc lẫn lời, dù bề gì thì cũng chỉ bởi chính mình. Còn phổ thơ người khác mà không diễn đạt nỗi ý chính của thi nhân thì vô tình nhạc sĩ làm hỏng cả bài thơ của thi sĩ. Thiết nghĩ theo ý tôi, ưu điểm nổi bật của một bản nhạc phổ ra từ thơ, là bản nhạc có âm điệu du dương, êm ái nhập tâm người nghe như lòi thơ vậy. Nếu bài thơ khi ta ngâm hay đọc lên nghe êm tai, dễ chấp nhận, thì bản nhạc phổ từ thơ đó cũng mang sắc thái mới lạ về khía cạnh âm điệu trong bài nhạc.
Anh Bằng với bề dày kinh nghiệm, ông cho biết nhiều bài nhạc khi ý tới ông viết rất nhanh, trong vòng 20 hay 30 phút là xong, tuy cũng có những bài cần thời gian phải lâu hơn, nhưng nhìn chung tất cả cảm xúc như trào dâng trong ý tưởng và biến thành giai điệu từ bài thơ được phổ.
Trong bài "Trúc Đào", thơ của Nguyển Tất Nhiên như sau:
"Chiều xưa có ngọn trúc dào
Mùa thu lá rung bay vao sân em
Mùa thu lá rụng êm đềm
như cô với cậu cười duyên dại khờ
Bởi vì hai dưa..ngây thơ
tình tôi dạo ấy la ngơ ngẫn nhìn
Thế rồi trăng sáng lung linh
Em mười sáu tuổi giân hờn vu vơ
sang năm mười bảy không ngờ
tình tôi nit nhỏ ngồi mơ cũng thừa
Tôi mười bảy tuổi buồn chưa
Dầu niên học mới dầm mưa cã ngày..."
Anh Bằng phổ thành nhạc, tương tự ca từ của nhạc sĩ đưa vào cho thích hợp hơn, êm ái hơn:
"Chiều xưa có ngọn trúc đào <
Mùa thu lá rụng bay vào sân em
Chiều thu lá rụng êm đềm
Vàng sân lá đổ cho mềm chân em
Tại vì hai đứa ngây thơ
Tình tôi dạo ấy là ngơ ngẩn nhìn
Nhìn vằng trăng sáng lung linh
Nhìn em mười sáu như cành hoa lê
Rồi mùa thu ấy qua đi
Chợt em mười tám chợt nghe lạnh lùng
Thuyền đành xa bến sang sông
Hàng cấy trút lá tình đi lấy chồng
Chiều nay nhớ ngọt trúc đào
Mùa thu lá rụng bay vào sân em
Người đi biết về phương nào
Bỏ ta với ngọn trúc đào bơ vơ..."
Bài thơ tôi muốn đề cập đến sau cùng hết là bài "Màu Tím Hoa Sim" của thi sĩ Hữu Loan, Anh Bằng chỉ mượn ý thơ làm thành bài ca "Chuyện Hoa Sim". Bài thơ khá dài, tôi xin trích dẫn đoạn đầu:
"Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!..."
Hai nhạc sĩ trao đổi việc sáng tác nhạc quê hương
Nhạc của Anh Bằng với ca từ được thể hiện hiện như sau:
"Rừng hoang đẹp nhất hoa màu tím
Chuyện tình thương nhất chuyện hoa sim
Có người con gái xuân vời vợi
Tóc còn ngăn ngắn chưa đầy búi
Ngày xưa nàng vẫn yêu màu tím
Chiều chiều lên những đồi hoa sim
Đứng nhìn sim tím hoang biền biệt
Nhớ chồng chinh chiến miền xa xăm
Ôi lấy chồng chiến binh
Lấy chồng thời chiến chinh, mấy người đi trở lại
Sợ khi mình đi mãi, sợ khi mình không về
Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em nhỏ hậu phương
Mà chết người em gái tôi thương..."
Bài thơ "Màu Tím Hoa Sim" của Hữu Loan đã vào văn học sử, tương tự bài tình ca "Chuyện Hoa Sim" cũng sẽ vào âm nhạc sử Việt Nam. Đây là sự thật hiển nhiên.
Để kết thúc bài viết này, về phạm vi phổ nhạc, mỗi nhạc sĩ khi phổ nhạc từ thơ đều đi theo một phương cách riêng của mình để tạo thành một tác phẩm hài hòa giữa sự giao duyên thơ và nhạc. Trong một nhận xét tổng quát, người ta thấy phần lớn những bài thơ được phổ thành nhạc đều không giữ được nguyên văn, phát xuất từ nhu cầu của bài nhạc, cũng nhu sự cảm xúc của nhạc sĩ khi đặt nhạc cho thơ, không ít thì nhiều, lời nguyên thủy của những bài thơ được phổ nhạc đã được thay đổi, thêm thắt hoặc cắt bỏ để phù hợp với sự đòi hỏi của kỹ thuật viết nhạc. Một bản nhạc được thăng hoa, hãy cho nhạc sĩ rộng tay hơn khi tìm tinh hoa chung giữ thơ và nhạc. Trong điều kiện như vậy, nhiều nhạc sĩ đã thành công và thành danh. Trong số đó có Anh Bằng.
Anh Bằng đã đóng góp nhiều tác phẩm tuyệt tác cho kho tàng âm nhạc Việt của chúng ta. Ông là một nhạc sĩ lớn sáng tác theo khuynh hướng nhạc tiền chiến. Ông cũng là một nhạc sĩ phổ nhạc thành công. Anh Bằng, một nhạc sĩ phổ nhạc thành danh.
Lam Phương - Doãn Quốc Sỹ - Việt Hải Los Angeles - Lan Hương